Thursday 25 October 2018

Họ Trĩ – Wikipedia tiếng Việt


Họ Trĩ (danh pháp khoa học: Phasianidae) là một họ chim, chứa các loài trĩ, công, cút, gà gô, gà lôi, gà so, gà tiền, gà rừng, gà nhà. Họ này là một họ lớn, chứa khoảng 38-53 chi và khoảng 159-182 loài (tùy quan điểm phân loại) còn sinh tồn. Họ này đôi khi cũng được tách ra thành 2 phân họ, là phân họ Trĩ (Phasianinae), chứa trên 52 loài trĩ, công, gà lôi, gà tiền, gà rừng; và phân họ Gà gô (Perdicinae), chứa trên 107 loài còn lại (cút, gà gô, gà so, đa đa). Đôi khi các họ bổ sung cũng được coi là một phần của họ này; ví dụ Hiệp hội điểu học Bắc Mỹ còn gộp cả các họ như Meleagrididae (2 loài gà tây), Tetraonidae (18 loài gà thông) và Numididae (6 loài gà Phi) vào trong họ Phasianidae như là các phân họ có danh pháp tương ứng là Meleagridinae, TetraoninaeNumidinae. Một số tác giả khác chỉ gộp 2 họ đầu tiên vào trong họ Trĩ như là các tông MeleagriniTetraonini của phân họ Phasianinae. Tuy nhiên ở đây sẽ coi chúng như là các họ riêng độc lập, do vẫn còn tranh cãi trong vấn đề này.





Trĩ và các đồng minh của nó là một họ chim của Cựu thế giới, với sự phân bố bao gồm phần lớn châu Âu và châu Á (ngoại trừ vùng cực bắc), cũng như gần như hầu hết châu Phi (ngoại trừ các sa mạc khô cằn nhất); kéo dài tới miền đông Australia và New Zealand (trước đây). Sự đa dạng lớn nhất về loài nằm tại Đông Nam Á và châu Phi. Trong số này, phân họ Trĩ có sự phân bố gần như chỉ hạn chế tại châu Á (ngoại trừ công Congo); phân họ Gà gô có sự phân bố rộng hơn. Trong phạm vi vùng sinh sống của mình, chúng chiếm lĩnh hầu hết mọi môi trường sống có thể, ngoại trừ các vùng lãnh nguyên và rừng cận Bắc cực.

Các thành viên trong họ này nói chung thường sống cố định và không di trú theo mùa, mặc dù một vài loài chim cút có thể di trú theo mùa trên một khoảng cách lớn. Một vài loài trong họ đã được du nhập rộng khắp trên thế giới, cụ thể là các loài trĩ đã được du nhập vào châu Âu, Australia và châu Mỹ. Các quần thể gà nhà nuôi nhốt (khắp thế giới) cũng nhiều khi thoát khỏi nơi nuôi giữ và trở thành những động vật thuần hóa sống hoang dã.



Các thành viên trong họ Phasianidae là các loài sinh sống trên mặt đất. Chúng dao động về kích thước, cân nặng, từ 43 g như ở chim cút ngực lam tới 6 kg trong trường hợp của công lam. Nói chung họ này có dị hình giới tính về kích thước, với chim trống có xu hướng to lớn hơn chim mái. Chúng nói chung tròn trĩnh, với hai cánh tương đối ngắn và rộng và các chân khỏe. Nhiều loài có cựa trên chân, một đặc trưng chia sẻ với gà Phi và gà tây, nhưng không với các dạng khác trong bộ Gà. Mỏ ngắn và nói chung khỏe, cụ thể là ở các loài phải đào bới để kiếm ăn. Con trống ở các loài to lớn thường có bộ lông sặc sỡ cũng như có cấu trúc trang điểm trên mặt như các yếm thịt hay mào.



Các loài trong họ này có thức ăn không giống nhau, với nguồn thức ăn từ thuần túy thực vật như hạt, lá, quả, củ, rễ tới các động vật nhỏ như côn trùng, ấu trùng của côn trùng và thậm chí cả các loài bò sát nhỏ. Phần lớn các loài hoặc là chuyên biệt hóa ăn thực vật hay săn mồi, mặc dù con non của phần lớn các loài là ăn côn trùng.

Ngoài các khác biệt về khẩu phần ăn uống, ở đây còn có khác biệt đáng kể trong chiến lược sinh sản trong họ Phasianidae. So với chim nói chung, trong họ này một lượng lớn các loài không có quan hệ một vợ một chồng (hệ thống sinh sản điển hình ở phần lớn các loài chim). Mặc dù có ghi nhận cho thấy các loài đa đa ở châu Phi và một vài loài gà gô có quan hệ kiểu một vợ một chồng, nhưng sự đa phu đa thê được ghi nhận ở các loài trĩ và gà rừng, một vài loài cút, và kiểu quyến rũ tình dục ở các loài công thì có thể được xem là một dạng của sân tìm đôi. Chúng nói chung làm tổ trên mặt đất nhưng các loài gà lôi trong chi Tragopan lại làm tổ trên cây. Tổ của chúng có thể là các ụ đắp từ lá cây tới các hốc đào bới nông vào trong lòng đất. Chúng có thể đẻ tới 18 trứng mỗi tổ, nhưng thông thường chỉ 7-12 quả, với số lượng nhỏ hơn thấy ở các loài vùng nhiệt đới. Việc ấp trứng gần như chỉ do con mái đảm nhiệm và chu kỳ này kéo dài khoảng 14-30 ngày, phụ thuộc vào từng loài.



Một vài loài trong họ này có tầm quan trọng lớn đối với con người. Gà rừng ở Đông Nam Á là tổ tiên hoang dã của gà nhà, loại gia cầm quan trọng nhất trong chăn nuôi trên toàn thế giới. Trĩ đỏ, một vài loài gà gô, chim cút, đa đa được du nhập và quản lý như là chim để săn bắn. Tuy nhiên, một vài loài bị đe dọa do các hoạt động săn bắn và tàn phá môi trường của con người.



Truyền thống[sửa | sửa mã nguồn]


Liệt kê dưới đây theo phân loại truyền thống với 2 phân họ: Perdicinae và Phasianinae.


  • Phân họ Perdicinae:
    • Ophrysia: 1 loài, cút Himalaya (Ophrysia superciliosa), có lẽ đã tuyệt chủng.

    • Xenoperdix: 2 loài

    • Melanoperdix: 1 loài, gà gô đen (Melanoperdix niger)

    • Caloperdix: 1 loài (Caloperdix oculeus)

    • Rollulus: 1 loài, gà gô mào (Rollulus rouloul)

    • Arborophila: 18 loài gà so

    • Bambusicola: 2 loài gà so

    • Rhizothera: 1 loài, gà gô rừng mỏ dài hay gà gô mỏ dài (Rhizothera longirostris)

    • Haematortyx: 1 loài (Haematortyx sanguiniceps)

    • Margaroperdix: 1 loài, gà gô Madagascar (Margaroperdix madagascariensis)

    • Anurophasis: 1 loài, cút núi tuyết (Anurophasis monorthonyx)

    • Coturnix: 9 loài cút. Cận ngành

    • Lerwa: 1 loài, gà gô tuyết (Lerwa lerwa)

    • Alectoris: 7 loài

    • Tetraogallus: 5 loài gà tuyết

    • Ammoperdix: 2 loài

    • Perdicula: 4 loài

    • Galloperdix: 3 loài

    • Francolinus: 41 loài đa đa, gà gô, chá cô, chim ngói. Đa ngành, có lẽ nên tách nhỏ ra. Xem dưới đây.

    • Perdix: 3 loài

    • Ptilopachus: 1 loài, gà gô đá (Ptilopachus petrosus): Cùng Francolinus nahani (nay là Ptilopachus nahani) chuyển sang họ Odontophoridae theo kết quả nghiên cứu phát sinh loài gần đây.

  • Phân họ Phasianinae:

Gần đây[sửa | sửa mã nguồn]


Các phân loại gần đây dựa theo các nghiên cứu phát sinh loài, phân chia họ này thành 5 phân họ với một số chi bị chia tách, do định nghĩa theo kiểu truyền thống là cận ngành hay đa ngành. Bên cạnh đó, hai họ Meleagrididae và Tetraonidae cũng được nhập vào đây (trong phân họ Phasianinae) để bảo đảm tính đơn ngành của họ Trĩ nghĩa rộng.


  • Rollulinae
    • Ophrysia

    • Xenoperdix

    • Melanoperdix

    • Caloperdix

    • Rollulus

    • Arborophila

  • Gallinae
    • Peliperdix (tách ra từ chi Phasianus), chứa 4 loài

    • Bambusicola

    • Gallus

    • Francolinus nghĩa hẹp (a), chứa 5 loài

    • Rhizothera

    • Dendroperdix

    • Scleroptila (tách ra từ chi Francolinus), chứa 6 loài

  • Pavoninae
    • Tông: Pavonini
      • Argusianus

      • Rheinardia

      • Afropavo

      • Pavo

    • Tông: Polyplectronini

  • Tetraogallinae
    • Excalfactoria (tách ra từ chi Coturnix), chứa 2 loài

    • Margaroperdix

    • Anurophasis

    • Coturnix nghĩa hẹp, chứa 7 loài

    • Lerwa

    • Alectoris

    • Tetraogallus

    • Ammoperdix

    • Perdicula

    • Galloperdix

    • Pternistis (tách ra từ chi Francolinus, chứa 23 loài

  • Phasianinae
    • Tông: Ithaginini

    • Tông: Lophophorini

    • Tông: Meleagrini (coi họ Meleagrididae là một phần của họ Trĩ)

    • Tông: Tetraonini (coi họ Tetraonidae là một phần của họ Trĩ)

    • Tông: Phasianini
      • Pucrasia

      • Perdix

      • Syrmaticus

      • Chrysolophus

      • Phasianus nghĩa hẹp (b), chứa 2 loài

      • Crossoptilon

      • Catreus

      • Lophura

Chi Ptilopachus với 1 loài (Ptilopachus petrosus) và đa đa Nahan (Francolinus nahani, hiện nay gọi là Ptilopachus nahani) được một số tác giả xếp vào họ Odontophoridae, nhưng chưa chắc chắn[1].



  • McGowan P. J. K. (1994) Family Phasianidae (Pheasants and Partridges) tr. 434-479 trong del Hoyo J.; Elliot A. & Sargatal J. (chủ biên). (1994). Handbook of the Birds of the World. Quyển 2: New World Vultures to Guineafowl. Lynx Edicions. ISBN 84-87334-15-6




No comments:

Post a Comment