Thursday 25 October 2018

Nghệ sĩ dương cầm (phim) – Wikipedia tiếng Việt


The Pianist là bộ phim hồi ký năm 2002 được đạo diễn bởi Roman Polanski, diễn viên chính Adrien Brody. Phim dựa trên cuốn hồi ký cùng tên của tác giả người Do Thái-Ba Lan nhạc sĩ Władysław Szpilman. Phim được hợp tác sản xuất giữa rạp chiếu phim Ba Lan, rạp phim Pháp, rạp phim Đức, và rạp phim Anh.

Ngoài việc chiến thắng các giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất, nam diễn viên xuất sắc nhất, kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, và được ứng cử cho phim hay nhất, quay phim xuất sắc, thiết kế trang phục và biên tập, bộ phim còn giành được giải Palme d’Or tại liên hoan phim Cannes 2002[1], Giải BAFTA cho phim hay nhất, cho đạo diễn xuất sắc nhất năm 2003, phim còn giành được 7 giải César của Pháp cho hình ảnh đẹp nhất, đạo diễn xuất sắc nhất, và nam diễn viên xuất sắc nhất cho Brody.





Wladyslaw Szpilman (Brody), một nghệ sĩ dương cầm Do Thái người Ba Lan nổi tiếng làm việc tại đài phát thanh Warsaw, nhìn thấy cả thế giới của mình đổ sập trong chiến tranh thế giới thứ 2 và sự xâm lược của Đức vào Ba Lan vào 1 tháng 1 năm 1939. Sau khi trạm radio bị phá hủy bởi bom đạn Đức, Szpilman về nhà và biết được rằng Anh và Pháp đã tuyên chiến với phát xít Đức. Anh và cả nhà vui mừng tin rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc.
Khi lính SS chiếm đóng Warsaw sau khi Wehramacht rời khỏi, điều kiện sống của người Do Thái ngày càng tồi tệ hơn, các quyền của họ dần bị tước bỏ: đầu tiên là chỉ cho phép sở hữu một lượng tiền giới hạn trong mỗi gia đình, sau đó họ phải đeo băng trên tay với ngôi sao sáu cánh màu xanh da trời như là dấu hiệu của người Do Thái, rồi là đến cuối năm 1940, họ buộc phải rời đến khu dành cho người Do Thái của Warsaw dơ dáy và bẩn thỉu. Ở đó, họ đối mặt với đói, sự ngược đãi, và bị làm nhục bởi lính SS và luôn phải đối mặt với cái chết, sự tra khảo và nạn đói. Phát xít càng trở nên tàn ác hơn và gia đình đã chứng kiến rất nhiều cảnh man rợ nhằm vào người Do Thái. Trong đó có cảnh một toán Einsatzgruppen, dẫn đầu là một hạ sĩ quan, đến căn hộ của một gia đình đối diện gia đình Szpilman. Chúng yêu cầu gia đình đứng dậy, một người già nhất trong gia đình đó ngồi trên xe lăn không thể đứng được. Lính SS đã nép ông ta xuống từ ban công. Những người còn lại của gia đình này được đưa xuống đường và bắn sau đó lái xe đè chết cả những người này.

Sau đó gia đình anh cùng hàng nghìn người khác bị quây lại thành từng phần để đưa tới trại thiêu xác ở Treblinka. Cũng như những người khác đang bị đưa đi, Szpilman được cứu thoát ở phút cuối bởi một người cảnh sát Do Thái của trại, người đã trở thành người bạn của gia đình anh. Bị tách ra khỏi gia đình và những người thân, Szpilman xoay xở để sống sót. Đầu tiên anh bị đẩy vào đơn vị tái thiết Đức bên trong trại tập trung như là một lao động nô lệ. Trong thời gian này một người khác bí mật kể cho Szpilman hai thông tin quyết định. Một là còn rất nhiều người Do Thái còn sống sót biết về kế hoạch diệt chủng người Do Thái của Đức, hai là có một kế hoạch nổi dậy chống lại người Đức đang được chuẩn bị. Szpilman tình nguyện tham gia giúp đỡ cho kế hoạch này. Anh tranh thủ giúp vận chuyển vũ khí vào trong khu trại tập trung và trong một lần thì suýt bị bắt.

Sau đó, trước khi kế hoạch nổi dậy được bắt đầu, Szpilman quyết định tới ẩn trốn ở ngoài khu trại tập trung, nhờ vào sự giúp đỡ của một gia đình không phải Do Thái, những người vẫn nhớ đến anh như là đồng nghiệp cũ ở đài phát thanh. Trong khi sống ẩn, anh nhìn thấy rất nhiều tội lỗi man rợ của lính SS, như giết người hàng loạt, phá hủy và thiêu những người Do Thái, những người nổi dậy khác. Năm 1943, Szpilman còn chứng kiến cảnh nổi dậy ở trại tập trung Warsaw mà anh đã từng giúp, và kết quả là lính SS bằng sức mạnh đã vào được trại tập trung và giết gần như hết những người nổi dậy. Một năm trôi qua, cuộc sống ở Warsaw càng tồi tệ hơn. Szpilman bị buộc phải bỏ trốn khỏi nơi ẩn náu đầu tiên sau khi một hàng xóm độc ác (người mà đoán rằng là chủ nhà, do đó đã hỏi anh về giấy chứng minh) phát hiện ra sự có mặt của anh và dọa sẽ bắt giữ. Ở nơi ẩu náu thứ hai của mình, gần bệnh viện quân sự Đức, trong nơi ẩn náu thứ hai, anh được chỉ cho một căn phòn với cây đàn dương cầm và được lưu ý giữ im lặng nhất có thể. Szpilman tất nhiên không thể chống lại được và mở bàn phím cây đàn. Cũng ở đây, anh suýt chết vì bệnh vàng da và ngộ độc thực phẩm.

Tháng 8 năm 1944, lực lượng kháng chiến Ba Lan nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Đức. Szpilman chứng kiến những người nổi dậy chiến đấu bên ngoài cửa sổ. Lại một lần nữa Szpilman gần như thoát khỏi cái chết khi mà pháo xe tăng Đức bắn vào căn hộ nơi anh đang trốn. Warsaw gần như bị san bằng và không có người sinh sống, kết quả của những trận đánh. Sau đó những người Warsaw còn sống sót bị trục xuất khỏi thành phố đổ nát và thốn thoát khỏi Đức khi Hồng quân Liên Xo đến gần, Szpilman còn lại một mình. Trong những ngôi nhà còn lại, anh tìm kiếm thức ăn. Trong một lần cố mở một hộp thức ăn, anh đã bị phát hiện bởi một sĩ quan Wehrmacht Wilm Hosenfeld (Kretschmann). Sĩ quan này hỏi Szpilman và phát hiện ra anh là một nghệ sĩ dương cầm, Hosenfeld yêu cầu Szpilman chơi cho trên cây đàn dương cầm cánh mà còn lại trong ngôi nhà. Szpilman yếu đuối, chỉ như một cái bóng của nghệ sĩ dương cầm chói lọi ngày nào, chơi một bản rút ngắn của Chopin, Ballade in G minor.
Hosenfeld để Szpilman tiếp tục ẩn trốn trong gác mái của ngôi nhà, và thậm chí còn mang cả thức ăn đến cứu sông anh. Sau đó vài tuần, lính Đức bị buộc phải rút khỏi Warsaw bởi sự tấn công của Hồng Quân. Trước khi rời khỏ nơi này Hosenfeld hỏi Szpilman tên anh và một ngày nào đó, có thể sẽ nghe thấy nó, và còn nhận xét rằng đó là một các nói khác của "nhạc sĩ dương cầm" (Szpilman trong tiếng Ba Lan chuyển qua tiếng Đức có nghĩa là người biểu diễn). Hosenfeld còn hứa là sẽ nghe Szpilman biểu diễn trên đài phát thanh Ba Lan. Anh đưa cho Szpilman đồng phục là chiếc áo khoác rồi đi. Sau đó chiếc áo khoác còn là sự hiểu lầm khi Hồng quân tưởng lầm anh là lính Đức. Tuy nhiên ngay sau đó anh đã thuyết phục được.
Những người tù mới được trả tự do từ những trại tập trung trở về nhà đi ngang qua hàng rào trong đó có những tù nhân chiến tranh Đức, được gác bởi lính Liên Xô, một người tù nhân Đức bị thương đã gọi một người đi đường và cho anh này biết tên mình là Hosenfeld, bảo anh ta nói vời Szpilman giúp thả tự do. Tuy nhiên khi Szpilman tới nơi thì họ đã đi khỏi, cùng với tất cả trại, hàng rào. Trong cảnh cuối của phim, Szpilman vui mừng chơi bài 'Grand Polonaise brillante in E flat major của Chopin cho rất nhiều khán giả Warsaw. Dòng chữ cuối phim cho biết rằng Szpilman tiếp tục sống ở Warsaw và chết vào năm 2000, Hosenfeld chết năm 1952 ở trại tù KGB, tuy nhiên sau khi chết được vinh danh vì đã cứu sống Szpilman và thiên hướng chống lại chính chế độ tội ác của chế độ mình.





Câu chuyện có một mối quan hệ sâu sắc với đạo diễn Roman Polanski vì anh đã trốn khỏi trại tập trung Krakow khi còn là một đứa trẻ sau cái chết của mẹ. Ông đã về sống ở một trang trại gia súc Ba Lan cho đến khi chiến tranh kết thúc. Cha ông chết trong trại tập trung.
Joseph Fiennes là lựa chọn đầu tiên của Polanski cho vai diễn chính, nhưng anh từ chối vì trách nhiệm ở nhà hát. Hơn 1400 diễn viên thử vai cho vai Wladyslaw Szpilman trong khi tuyển ở London. Không có ai vừa ý trong số những người thử vai đạo diễn Roman Polanski tìm đến Adrien Brody người mà ông nghĩ sẽ là một vai diễn lý tưởng trong cuộc gặp gỡ của họ lần đầu ở Paris.

Các cảnh trong "The pianist" bắt đầu quay vào 9 tháng 2 năm 2001 ở trường quay Babelsberg ở Potsdam, Đức. Trại tập trung Warsaw và thành phố bao quanh được tái tạo ở backlot của trường quay Babelsberg như những thứ họ đã chứng kiến trong chiến tranh. Doanh trại quân đội Liên Xô cũ được sử dụng để làm thành phố đổ nát, giống như nó đang bị tàn phá.

Cảnh đầu tiên của phim được bấm máy ở doanh trại quân đội cũ. Ngay sau đó, nhà làm phim di rời đến biệt thự ở Potsdam nơi mà trong phim là ngôi nhà mà Szpilman gặp Hosenfeld. Ngày 2 tháng 3 năm 2001, việc quay phim chuyển đến một bệnh viện quân đội Liên Xô bỏ hoang ở Beelizt, Đức. Những cảnh hỏa lực của Đức hủy diệt bệnh viện cùng với súng phun lửa được quay ở đây. Ngày 15 tháng 3 việc quay phim cuối cùng rời đến xưởng phim Babelsberg. Cảnh đầu tiên tại xưởng phim là cảnh mà Szpilman chứng kiến một sự kháng cự của người Do Thái từ trại tập trung. Đây là cảnh quay phức tạp và yêu cầu kỹ thuật bao gồm những pha nhào lộn và các vụ nổ. Việc quay phim tại xưởng quay kết thúc vào 2 tháng 3 và di chuyển đến Warsaw vào 29 tháng 3. Quận điển hình của Praga được chọn để quay phim bời vì sự có rất nhiều những căn hộ nguyên bản. Phần nghệ thuật đã thiết kế trong những ngôi nhà nguyên bản này, tái tạo lại Ba Lan trong chiến tranh thế giới 2 với những dấu hiệu, bức áp phích từ thời xưa. Những cảnh còn lại của phim được quay ở quanh Warsaw. Cảnh Umschlagplatz nơi mà Szpilman cùng gia đình và hàng trăm người do thái khác đợi để đưa đến trại tiêu diệt được quay ở Đại học quốc phòng quốc gia ở Warsaw.
Việc quay phim kết thúc vào tháng 7 năm 2001 và được xử lý hậu kỳ vài tháng sau dó ở Paris, Pháp.



Bộ phim nhận được rất nhiều cái nhìn tích cự từ những nhà phê bình và vai diễn Adrien Brody được nhìn nhận với sự hoan nghênh chung. "The Pianist" hiện tại giữu điểm số 95% trong bầu chọn phim của website Rotten Tomatoes,,[2] with the Cream of the Crop critics rating the movie with a score of 100%. Metacritic rates the movie as 85% based on 40 reviews.[3]

Roger Ebert nói " có lẽ chính sự dửng dưng đã phản ánh những gì mà Polansky muốn nói… Bằng cách đưa ra nhân vật Szpilman như một người sống sót nhưng không phải là một kẻ chiến đấu hay một anh hùng-như là một con người mà làm những gì anh ta có thể để cứu sống chính anh ta, nhưng sẽ chết nếu không có sự may mắn to lớn và sự tốt bụng của một vài người không phải Do Thái-Polanski đang phản ánh cảm giác trong sâu thẳm tâm hồn của ông: rằng ông đã sống sót, và mẹ ông đã chết và bỏ lại vết thương không thể lành. "[4]



Bộ phim được phát hành trên DVD vào 26 tháng 5 năm 2003 trong một phiên bản DVD đặc biệt hai mặt. Mặt đầu tiên là bộ phim không có "bonus material". Mặt kia bao gồm "bonus material". Một vài "bonus material " bao gồm cảnh làm phim, phỏng vấn Adrien Brody, Roman Polanski và Ronald hẳood, và đoạn quay Wladyslaw Szpilman chơi dương cầm. Phiên bản DVD tiếng Ba Lan bao gồm cả đoạn ghi tiếng bình luận bởi thiết kế sản xuất Allan Starski và đạo diễn quay phim Pawel Edelman.
The film was released on DVD on ngày 26 tháng 5 năm 2003 in a double-sided "flipper" disc Special Edition DVD. The first side of the disk had the film with no bonus material. The second side of the disc included the Bonus Material. Some Bonus Material included a making-of, interviews with Adrien Brody, Roman Polanski and Ronald Harwood, and clips of Władysław Szpilman playing the piano. Polish DVD edition included audio commentary track (in Polish) by production designer Allan Starski and director of photography Paweł Edelman.
Optimum Home Entertainment phát hành "The Pianist" tới hội chợ châu Âu trong đĩa Bluray như là một phần của bộ "sưu tập StudioCanal" vào 13 tháng 9 năm 2010[5] và đây là phim thứ 2 được phát hành trên Bluray. Phim đầu tiên có một vài vấn đề với phụ đề: bản BD gốc thiếu phụ đề cho đoạn hội thoại tiếng Đức. Sau đó thì lỗi này đã được sửa.[6] nhưng phiên bản phát hành đầu vẫn thiếu tiếng động của các hiệu ứng. Phiên bản StudioCanal Collection bao gồm cả cảnh hậu trường trông giống như một vài cảnh phỏng vấn với nhà làm phim và những người thân Szpilman[7].



  • Phần nhạc nghe lúc bắt đầu bộ phim là Nocturne in C-sharp minor Lento con gran espressione của Chopin.

  • Phần nhạc dương cầm mà được nghe từ nhà hàng xóm trong khi Szpilman đang ẩn trốn tại căn hộ là the Mazurka in A Minor, Op. 17, No. 4 của Frederic Chopin.

  • Phần dương cầm được nghe trong căn nhà hoang khi Szpilman vừa mới phát hiện ra nơi ẩn nấp trên gác mái là Moonlight Sonata của Beethoven. Bản mà sau đó phát hiện ra rằng chính sĩ quan người Đức Hosenfeld là nghệ sĩ. Một sáng tác của Đức đặt cạnh cùng với một tác phẩm Ba Lan (Chopin) sau sự lựa chọn của Szpilman.

  • Phần dương cầm được chơi khi Szpilman đối mặt với Hosenfeld là Ballade No. 1 in G minor, Op. 23 của Chopin, là phiên bản được rút ngắn. Cả phần đó đầy đủ dài 9-10 phút.

  • Phần nhạc vi ô lông xen ở giữa phim chơi bởi Dorota là đoạn mở đầu của Cello Suite No. 1 được viết bởi Bach.

  • Phần giao hưởng nghe ở cuối phim được chơi bởi dàn nhạc là Grande Polonaise brillante, Op. 22 của Chopin

  • Cảnh khi tay cua Szpilman chơi trên piano đã đóng được cung cấp bởi nghệ sĩ dương cầm cổ điển Ba Lan Janusz Olejniczak (b.1952), người còn biểu diễn trong cả tập album của phim.

  • Do Polanski muốn bộ phim trở nên thật nhất có thể, bất kì cảnh nào của Brody chơi đều là do chính anh biểu diễn thông qua sự ghi âm được cung cấp bời Janusz Olejniczak. Để phần biểu diễn của Brody giống với trình độ của Wladyslaw Szpilman’s, anh đã phải bỏ ra rất nhiều tháng trước và trong quá trình làm phim luyện tập để những phím đánh trên dương cầm thuyết phục được người xem rằn anh đang chơi.

Giải giành được[sửa | sửa mã nguồn]


Đề cử[sửa | sửa mã nguồn]






Bản mẫu:Roman Polanski
Bản mẫu:Palme d'Or 2000-2019
Bản mẫu:César Award for Best Film






No comments:

Post a Comment