Thursday 25 October 2018

Quan Vũ – Wikipedia tiếng Việt



Quan Vũ (chữ Hán: 關羽, ? - 220),[1] cũng được gọi là Quan Công (關公), biểu tự Vân Trường (雲長) hoặc Trường Sinh (長生) là một vị tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công vào việc thành lập nhà Thục Hán, với vị hoàng đế đầu tiên là Lưu Bị. Mặc dù không được các tài liệu chính thống xác nhận, ông thường được cho là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi, và là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung.[2]

Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v... với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao, thêm thắt, cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581-618). Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 49 kg ngày nay). Dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành, nhưng các nhà sử học cũng phê phán ông vì tính kiêu căng, ngạo mạn.





Quan Vũ người Giải Lương, quận Hà Đông (nay là Vận Thành, tỉnh Sơn Tây). Tam Quốc ngoại truyện cho rằng ông là người Bồ châu.[3]


Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả nhân vật Quan Vũ cao chín thước (hơn 2 mét ngày nay), mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt. Những miêu tả này của La Quán Trung chỉ là ước lệ, và không có cơ sở lịch sử.
Quan Đế minh thánh kinh cho rằng cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm (關審), tự là Vấn Chi (問之); cha ông là Quan Nghị (關毅), tự là Đạo Viễn (道遠).[4] Các sách sử chính thống không có ghi chép gì về tổ tiên của Quan Vũ.

Thời trẻ, Quan Vũ làm nghề bán đậu phụ. Tuy nhà nghèo, ông cũng được theo học cả văn lẫn võ.[5] Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Do bênh vực người khác mà ông phạm tội giết người, phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác.

Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi. Ba người coi nhau như anh em.


Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa có tình tiết hư cấu về việc Lưu, Quan, Trương kết nghĩa ở vườn đào, xin được chết cùng ngày, cùng tháng, cùng năm.

Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác nổi lên, Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị khởi binh dẹp quân khởi nghĩa. Trong quá trình dẹp Khăn Vàng, ông là cánh tay đắc lực của Lưu Bị.

Sau đó Lưu Bị theo Công Tôn Toản làm Bình Nguyên tướng, bèn bổ nhiệm ông và Trương Phi làm Biệt hộ Tư mã, chia nhau thống lĩnh quân đội của Lưu Bị.

Năm 190, Viên Thiệu tập hợp chư hầu lập liên minh đánh Đổng Trác. Công Tôn Toản và Lưu Bị không tham gia.


Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt nên chuyện Quan Vũ tham gia hội minh, dễ dàng lập công chém Hoa Hùng. Đây chỉ là hư cấu của La Quán Trung, Hoa Hùng bị quân Tôn Kiên đánh bại và hành hình năm 191 tại Dương Nhân (陽人). Việc Quan Vũ cùng Trương Phi, Lưu Bị giao chiến với Lã Bố ở cửa ải Hổ Lao cũng hoàn toàn không có thật.

Năm 193, Tào Tháo mang quân đánh Từ châu báo thù cho cha là Tào Tung vì nghi quan mục Từ châu là Đào Khiêm chủ mưu giết Tào Tung. Đào Khiêm cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Khải lại cầu cứu đến Công Tôn Toản. Toản bèn sai Lưu Bị đi cứu. Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị đi cứu Từ châu với mấy cánh quân cứu viện cùng quân Từ châu tạo thế ỷ dốc khiến quân Tào không thể hạ được thành.

Không lâu sau, Lã Bố đánh chiếm Duyện châu của Tào Tháo. Tào Tháo buộc phải giải vây Từ châu, mang quân trở về cứu. Đào Khiêm rất cảm phục Lưu Bị đã cứu giúp.

Năm 194, do tuổi già sức yếu nên trước khi qua đời, Đào Khiêm tiến cử Lưu Bị làm Từ châu mục.

Lã Bố bị Tào Tháo đánh bật khỏi Duyện châu, bèn chạy đến Từ châu theo Lưu Bị. Ít lâu sau Viên Thuật mang quân đánh Từ châu, trong khi Lưu Bị đang cùng Thuật giao tranh thì Lã Bố đồng mưu với Thuật đánh úp thành Từ châu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mắc kẹt ở Quảng Lăng không có đường về, đành phải trở lại Từ châu hàng Lã Bố, được Bố cho ở thành nhỏ Tiểu Bái.



Năm 198, Lã Bố lại trở mặt đánh Tiểu Bái. Tuy Quan Vũ và Trương Phi khỏe mạnh hơn người nhưng vì quân ít nên vẫn bị bại trận và theo Lưu Bị chạy khỏi Tiểu Bái và cầu viện Tào Tháo.


Theo Tào đánh Từ Châu, xin lấy vợ Tần Nghi Lộc[sửa | sửa mã nguồn]


Tháng 9 năm đó, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ cũng dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10, cuối cùng Lã Bố bị tướng của mình làm phản, bị bao vây ở lầu Bạch Môn, bị bắt và xử tử.

Theo Tam Quốc Chí, Lã Bố đã sai Tần Nghi Lộc đi cầu cứu Viên Thuật, Thuật giữ Nghi Lộc ở lại và gả cho vợ mới. Quan Vũ nói với Tào Tháo hãy cho ông được lấy vợ cũ của Tần Nghi Lộc là Đỗ Thị. Sau khi phá được Lã Bố, Vũ lại đến xin lấy người đó làm vợ. Tào Công ngờ rằng Đỗ thị có nhan sắc, mới sai người đưa về xem trước, rồi giữ lại cho mình, nhận con của thị là Tần Lãng làm con nuôi. Quan Vũ trong lòng bất an.[6]

Sách Thục ký chép rằng: trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng có nhận người đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được. Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai ông mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.[7]


Tam Quốc Diễn Nghĩa lượt bỏ đi chuyện Quan Vũ xin Tào Công cho lấy vợ, lại thêu dệt nên chuyện Quan Vũ cùng Lưu Bị quì xuống xin Tào Tháo tha mạng cho tướng cũ của Lã Bố là Trương Liêu.

Cùng Lưu Bị tạo phản, chiếm Từ Châu[sửa | sửa mã nguồn]


Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Tào Tháo không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Lưu Bị bị giữ lại Hứa Xương để kiềm chế.

Sách Thục ký chép rằng: Có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo nhưng Lưu Bị không nghe theo vì tình thế không cho phép manh động.[8]

Năm 199, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật, Tào Tháo cấp 1.000 quân cho đi. Quan Vũ và Trương Phi lại hộ vệ Lưu Bị ra mặt trận, giúp Lưu Bị đánh bại Thuật. Thuật thua trận ốm chết.

Lưu Bị thừa cơ dẫn quân đánh chiếm Từ Châu, giết Xa Trụ. Quan Vũ được bổ nhiệm làm thái thú Hạ Bì.


Thua trận, đầu hàng Tào Tháo[sửa | sửa mã nguồn]


Đầu năm 200, Tào Tháo chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.


Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa tác giả La Quán Trung thêu dệt nên câu chuyện hư cấu rằng Quan Vũ ban đầu thà chết không chịu hàng, sau nhờ có Trương Liêu thuyết phục mới giao ước ba việc, trong đó có "hàng Hán, không hàng Tào".

Tào Tháo rất trọng vọng ông, phong làm thiên tướng quân, Hán Thọ Đình Hầu (漢壽亭侯). Nhưng Tào Tháo để ý thấy ông không có ý ở lại lâu dài với mình, bèn sai Trương Liêu đến thăm dò ông. Quan Vũ thẳng thắn nói với Trương Liêu:"Tào Công đối với tôi rất tốt, trong lòng tôi biết rõ. Nhưng tôi chịu ơn trời cao đất dày của Lưu tướng quân, từng thề là cùng sống cùng chết, không thể phản bội được. Tôi không thể lưu lại nơi này, chỉ có điều phải đợi lập được công, báo đáp Tào Công thì tôi mới đi".

Trương Liêu trở về nói lại với Tào Tháo. Tào Tháo không những không tức giận mà càng thêm kính trọng ông.


Đột kích chém Nhan Lương[sửa | sửa mã nguồn]


Viên Thiệu theo lời khẩn cầu của Lưu Bị bèn dẫn quân đi đánh Tào Tháo. Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Quan Vũ và Trương Liêu đi cứu Bạch Mã; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã.

Tháng 5 năm 200, Quan Vũ cùng Trương Liêu lại theo Tào Tháo đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Quân Tào đánh bại quân họ Viên một trận nữa tại đây, Văn Xú tử trận.


Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt thêm chuyện Văn Xú đánh bại Từ Hoảng, Trương Liêu, nhưng bị Quan Vũ cưỡi ngựa Xích Thố đuổi theo chém chết. Trên thực tế Văn Xú chết trong đám loạn quân, không rõ ai giết, và Quan Vũ cũng chưa từng cưỡi ngựa Xích Thố.

Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó Tào Tháo hạ lệnh lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân. Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Tào Tháo càng khâm phục Quan Vũ, ban thưởng cho ông rất nhiều.


Bỏ trốn về với Lưu Bị[sửa | sửa mã nguồn]


Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tự lập. Quan Vũ sau khi đã lập công trả ơn cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị. Trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi.[9] Thủ hạ của Tào Tháo muốn truy kích ông nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo.


Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo ở Hứa Xương sau trận Diên Tân. Tào Tháo còn kịp đi ra tiễn ông ở Hứa Xương. Trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường và Quan Vũ rời khỏi đại doanh Tào ở Diên Tân. Chuyện Quan Vũ bảo vệ hai chị qua năm ải chém sáu tướng, nhận Quan Bình làm con nuôi, thu nhận Châu Thương cũng hoàn toàn không có thật. (Quan Bình là con ruột, Châu Thương là nhân vật hư cấu).

Trở lại giúp Lưu Bị dựng nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]


Sau đó ông gặp lại được Lưu Bị và Trương Phi, cùng nhau xây dựng lại lực lượng. Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Trong khi đó, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ năm 200 và năm sau lại đánh bại Thiệu một trận nữa ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp.

Tháng 6 năm 201, trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo mang quân về Hứa Xương rồi sai Sái Dương mang quân tấn công Lưu Bị ở Nhữ Nam. Sái Dương tử trận, Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.


Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ nhưng thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam.[10]

Năm 208, Tào Tháo sau khi diệt họ Viên, làm chủ toàn bộ trung nguyên, bèn mang quân đánh Kinh châu. Lưu Bị từ Phàn Thành, chuẩn bị mang dân vượt sông, sai Quan Vũ mang mấy trăm chiến thuyền theo dòng sông, hẹn hội binh ở Giang Lăng.

Tào Tháo sợ Lưu Bị chiếm mất Giang Lăng là chỗ chứa nhiều lương thảo, bèn sai 5000 quân kỵ gấp rút đuổi theo. Lưu Bị giao chiến 2 trận đại bại, phải bỏ hết gia quyến chạy về Hán Tân và gặp Quan Vũ.


Tham gia chiến dịch Xích Bích[sửa | sửa mã nguồn]


Tập hợp lực lượng trở lại, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền. Chu Du chỉ huy liên quân, dùng kế hỏa công của Hoàng Cái đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích cuối năm 208, Quan Vũ cũng cùng Lưu Bị tham chiến. Tào Tháo bại binh, phải nhanh chóng trở về giữ phương bắc, giao cho Tào Nhân và Từ Hoảng ở lại giữ thủ huyện Nam Quận là Giang Lăng, sai Nhạc Tiến giữ Tương Dương.


Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt nên tình tiết Quan Vũ trọng nghĩa tha mạng cho Tào Tháo ở đường Hoa Dung. Sự kiện hư cấu này hoàn toàn không có thật, Lưu Bị và Chu Du đã cố đuổi theo Tào Tháo nhưng không kịp.

Các thất bại ở Giang Lăng[sửa | sửa mã nguồn]


Lưu Bị và Tôn Quyền đều muốn nhân đà thắng lợi để giành lấy vùng đất chiến lược Kinh châu. Chu Du cầm vài vạn quân tiền tuyến từ Xích Bích, Ô Lâm tiến đánh Giang Lăng. Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi mang hơn 1000 quân mã đóng ở bờ nam sông Trường Giang cùng tiến.

Quan Vũ theo lệnh biệt phái của Lưu Bị và Chu Du, mang quân lên phía Bắc nhằm chia cắt liên lạc giữa Thượng Giang và Giang Lăng, chặn đường rút lui của Tào Nhân.

Thái thú Nhữ Nam là Lý Thông dẫn quân đánh Quan Vũ. Vũ thúc quân bủa vây. Lý Thông và các tướng sĩ xuống ngựa nhổ hết chông chà, xông vào vòng vây, vừa đánh vừa tiến lên, cuối cùng phá được vây, đánh lui Quan Vũ.[11]

Nhạc Tiến khi ấy khởi quân ra thành Tương Dương, đánh bại Quan Vũ. Sau đó, Vũ lại dùng thủy binh vây lấy Thượng Giang, nhưng Nhạc Tiến và Văn Sính lại đánh lui được Vũ ở gần Hạ Khẩu, khiến đường nối phía bắc với Giang Lăng của quân Tào được thông suốt.[12]Văn Sính lại tiếp tục dùng thủy quân đuổi đánh Quan Vũ ở Tầm Khẩu, lấy được kho lương và đốt sạch chiến thuyền của Vũ. Với chiến công đó, Sính được tấn phong tước Diên Thọ Đình hầu và chức Thảo nghịch tướng quân.[13]


Trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, tất cả những thất bại này của Quan Vũ đều bị lượt bỏ.

Bình định phía nam Kinh châu[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến dịch bao vây Giang Lăng kéo dài hơn 1 năm mới kết thúc. Tháng chạp năm 209, trước sự vây bức ngày càng ác liệt của quân Đông Ngô, Tào Tháo lệnh cho Tào Nhân bỏ thành Giang Lăng rút về Tương Dương. Chu Du thúc quân vào chiếm đóng Giang Lăng và các huyện phụ cận. Tuy chưa chiếm được toàn bộ Nam quận nhưng Tôn Quyền đã giành quyền kiểm soát đại bộ phận phía nam; chỉ còn Tương Dương và vài huyện quanh đó vẫn trong tay Tào Tháo. Chu Du được Tôn Quyền phong làm Thái thú Nam quận, thiết lập chiến tuyến tiền tiêu tại đây trong cuộc đối đầu với Tào Nhân.


Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt ra việc Chu Du sau khi đánh bại được Tào Nhân rồi định đến chiếm thành thì thành đã thuộc về Lưu Bị. Chu Du bực tức quay sang đánh "Kinh châu" (Công An) và Tương Dương nhưng các thành này cũng đã bị Gia Cát Lượng lập kế nẫng tay trên.

Trong khi Lưu Bị và Trương Phi tham gia tác chiến cùng Chu Du, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Triệu Vân phối hợp với Lưu Kỳ tấn công 4 quận phía nam Kinh châu. Vũ được phong thái thú Tương Dương, Đãng khấu tướng quân.[14]


Tam Quốc Diễn Nghĩa có mô tả một trận chiến hư cấu ở Trường Sa, trong đó Quan Vũ đã đại chiến với Hoàng Trung. Trên thực tế Hoàng Trung khuyên thái thú Trường Sa là Hàn Huyền nên không đánh mà hàng Lưu Bị, Huyền đồng ý.

Tháng 12 năm 211, Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên, Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh Châu. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận.[15] Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị tiếp quản phần nửa quận Giang Hạ. Quan Vũ tiếp quản Kinh châu từ tay Lưu Bị với lãnh thổ 4 quận rưỡi.


Hội đàm với Lỗ Túc[sửa | sửa mã nguồn]


Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ[16] nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng "mượn" lâu ngày không trả.

Năm 214, nhân lúc Lưu Bị đã vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân cùng các tướng giỏi như Triệu Vân và Trương Phi, Tôn Quyền bèn sai Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu trong tay Quan Vũ. Quân Đông Ngô đông đảo, đánh chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và quận Vũ Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc.

Tôn Quyền cũng đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương. Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Lỗ Túc hỏi Quan Vũ:


Ba quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa là bên tôi cho các ông mượn, sao các ông không trả lại?

Quan Vũ đáp:


Trong trận Xích Bích - Ô Lâm, Tả tướng quân (Lưu Bị) thân trong bộ ngũ, cùng các ông nhất tề ra sức, phá được quân địch, sao không được chia mảnh đất nào?

Lỗ Túc nói tiếp:


Lần đầu tiên ta gặp Lưu Dự châu (Lưu Bị) của các ông ở Đương Dương Tràng Bản, quân số ông ta không đầy một hiệu, bản thân ông ta hết cách, muốn chạy nạn tới nơi xa. Chúa thượng bọn ta (Tôn Quyền) thương ông ta không nơi nương tựa nên cho ông ta chỗ yên thân (Kinh châu). Không ngờ Lưu Dự châu biết làm việc đạo đức lại vứt bỏ tình nghĩa, bây giờ đã có Ích châu lại muốn có cả Kinh châu. Đó là chuyện người thường cũng không nỡ làm, huống chi Dự châu sao có thể như thế?

Quan Vũ không trả lời được.[17] Hai bên thu quân trở về.

Việc hội đàm trong Tam Quốc Diễn Nghĩa được tác giả thêu dệt thành việc Quan Vũ "một đao tới hội" với Lỗ Túc và không có việc bị đuối lý với Lỗ Túc. Trong sự kiện hư cấu này, Quan Vũ đã dùng mưu trí và uy dũng của mình để thoát khỏi sự uy hiếp của quân Đông Ngô, bắt Lỗ Túc làm con tin, xem các tướng Ngô như trẻ nít.


Giảng hòa rồi bất hòa[sửa | sửa mã nguồn]


Năm 215, thấy tình hình bất lợi (Tào Tháo chiếm Hán Trung từ tay Trương Lỗ, uy hiếp Tây Xuyên) và không thể dùng vũ lực đoạt lại các quận đã mất, Lưu Bị đành phải nhượng bộ Tôn Quyền, đề nghị chính thức công nhận chủ quyền 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa cho Đông Ngô, xin đổi lấy Nam quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Quan Vũ tiếp nhận quận Giang Lăng, tướng của Tôn Quyền là Trình Phổ giao lại Giang Lăng, về giữ chức thái thú Giang Hạ. Tôn Quyền giao thêm phần nửa Nam quận cho Quan Vũ; đổi lại Quan Vũ chính thức giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Như vậy địa bàn Kinh châu của Quan Vũ từ năm 215 chỉ gồm có các quận Vũ Lăng, Giang Lăng và nửa Nam quận. Trên thực tế Quan Vũ vốn chỉ còn giữ được 1 quận và được Tôn Quyền bàn giao thêm 1 quận rưỡi.[18]

Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân với Lưu Bị, bèn sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Tuy nhiên, Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu như Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh, không những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Ông quát vào mặt sứ giả Đông Ngô:


Con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho loài chó à!.[19]

Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Kinh châu lại căng thẳng hơn trước. Người duy nhất chủ trương giữ hòa khí với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời nên Tôn Quyền chủ trương ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.[20]


Vây hãm Tương Phàn[sửa | sửa mã nguồn]



Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương. Quan Vũ được phong làm Tiền tướng quân và ban cho cờ tiết, lưỡi phủ việt.

Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến. Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương giữ Giang Lăng, Phó Sĩ Nhân giữ thành Công An, còn mình khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo. Ông vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy cấp.


Tam Quốc Diễn Nghĩa có tình tiết hư cấu rằng Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương.

Đúng lúc đó thì Tôn Quyền muốn nhân cơ hội Quan Vũ rời Kinh châu để lấy toàn bộ Kinh châu, bèn sai người dâng thư đến xin quy phục Tào Tháo, giúp Tào giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng quyền thuật: một mặt nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác lại mang thư đầu hàng của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó của Tào Tháo đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến Tào có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn Thành, giữ yên được mặt nam. Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình.[21]

Tháng 8 năm 219, mưa nhiều ngày không ngớt, nước sông Hán Thuỷ lên cao, tràn bờ gây ra lũ lụt. Bảy đạo quân Vu Cấm và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng định chạy trốn không được, đều lần lượt bị bắt. Vu Cấm sợ hãi đầu hàng Quan Vũ, còn Bàng Đức không chịu hàng nên bị Quan Vũ sai mang chém. Sau này con trai Bàng Đức trả thù cho cha đã giết sạch gia tộc Quan Vũ.[22]


Tam Quốc Diễn Nghĩa có tình tiết hư cấu rằng Quan Vũ dùng mưu kế khơi dòng nước, tạo ra lũ lụt.

Phàn Thành rất nguy cấp, nhiều chỗ trong thành bị nước sông làm sói lở, Tào Nhân và các tướng cố sức liều chết chống trả. Tại thành Tương Dương, Lã Thường cũng cố sức cầm cự trước sức tấn công của Quan Vũ. Hai thành bị ông vây ngặt, hoàn toàn không liên lạc được với nhau. Trước tình thế đó, các tướng Tào khác gồm thứ sử Kinh châu[23] là Hồ Tu, thái thú Nam Dương là Trù Phương đều đầu hàng Quan Vũ.

Tào Tháo rất lo lắng, toan tính thiên đô - dời Hán Hiến Đế khỏi Hứa Xương. Sau nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo mới quyết định không thiên đô, sai Từ Hoảng mang quân đi cứu Phàn Thành.

Quan Vũ nhân đà thắng trận, dẫn quân tiến sâu vào Hiệp Hạ,[24] kích động các bộ tộc thiểu số phản Tào. Nhiều lực lượng chống Tào ở phía nam Hứa Xương nhận ấn hiệu đi theo Quan Vũ. Trung nguyên rung động.


Thua trận, mất Kinh Châu, bị giết[sửa | sửa mã nguồn]


Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền cũng sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu.


Từ Hoảng phá vòng vây[sửa | sửa mã nguồn]


Quan Vũ và Từ Hoảng đều là người quận Hà Đông, từ nhỏ đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt.[25] Tuy nhiên khi ra trận lần đó, Từ Hoảng quyết thắng Quan Vũ.


Thục ký viết: Vũ cùng Hoảng khi xưa rất quí trọng nhau, lúc ấy trông xa nói chuyện, chỉ nói chuyện thường ngày, không nhắc việc quân. Chốc lát, Hoảng quay đầu ngựa truyền lệnh: "Ai lấy được đầu Vân Trường, thưởng 1000 cân vàng". Vũ lo sợ cuống cuồng, hỏi Hoảng rằng: "Đại huynh sao lại nói như vậy?" Hoảng đáp: "Ấy chỉ bởi việc nước mà thôi".

Từ Hoảng dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng. Ông phải hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui, quân bị rơi xuống sông Hán Thủy chết rất nhiều.


Lã Mông đánh úp Kinh Châu[sửa | sửa mã nguồn]


Quan Vũ vốn hay yêu quý sĩ tốt nhưng lại coi thường các sĩ phu. Vì vậy hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân vẫn bất mãn với ông.[26] Lã Mông bất thần kéo đến, My Phương và Phó Sĩ Nhân theo lời thư dụ của Lã Mông, không giao chiến đã đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền.

Quan Vũ thua trận chạy về nửa đường mới biết Giang Lăng và Công An đã mất. Vợ con các tướng sĩ bị bắt sống cả, quân của Vũ tản mát hết. Ông vốn có thể chạy về phía tây bắc (gần Tây Xuyên) đến các quận Thượng Dung và Phòng Lăng, nhưng vì quan hệ với các tướng trấn giữ ở đó là Mạnh Đạt và Lưu Phong không tốt[25] nên cùng đường phải chạy về phía nam ra Mạch Thành.[27] Đến nơi, ông lại biết tin tướng Đông Ngô là Lục Tốn đã đánh chiếm được Nghi Đô. Trong khi Quan Vũ chờ đợi viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh không đến cứu.


Đang đêm trốn theo đường nhỏ, bị bắt và chặt đầu[sửa | sửa mã nguồn]


Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị).

Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư[28] thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường. Chu Nhiên để sổng Vũ, nhưng bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt sống được Vũ mang về. Cả Quan Vũ và Quan Bình cùng bị hành quyết tại chỗ.[29]


Tam Quốc Diễn Nghĩa có các tình tiết hư cấu kể rằng hai cha con họ Quan được giải từ Mạch Thành về đến tận kinh đô của Đông Ngô là Kiến Nghiệp. Tôn Quyền cố chiêu hàng Quan Vũ nhưng được, lại bị Vũ chửi mắng nên mới ra lệnh chặt đầu Vũ và Bình. Thủ cấp của hai cha con lại được đưa từ Kiến Nghiệp trở lại Mạch Thành, sau khi nhìn thấy thì Châu Thương (nhân vật hư cấu) nhảy xuống thành tự sát theo chủ. Đầu của Quan Vũ sau đó lại tiếp tục được đưa từ Mạch Thành tới Lạc Dương dâng cho Tào Tháo, nhưng đến lúc đó vẫn tươi y như khi còn sống.

Thanh long đao của Quan Vũ (không có thật) bị Phan Chương lấy mất, còn ngựa Xích Thố (ngựa của Lã Bố, chưa bao giờ thuộc về Quan Vũ) được thưởng cho Mã Trung. Sau này hồn ma của Quan Vũ hiện lên để giúp con trai Quan Hưng giết Phan Chương đoạt lại đao. (Quan Hưng thật ra là quan văn, bị chết yểu, qua đời trước Phan Chương.)

Tào Tháo hậu táng[sửa | sửa mã nguồn]


Tôn Quyền sai người mang đầu ông đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu.

Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ.[30] Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền.[31]


Tam Quốc Diễn Nghĩa thêu dệt nên chuyện rằng: "Ngày Tôn Quyền mở tiệc khao Lã Mông, hồn ông đã quay về giết chết Lã Mông. Vì hoảng sợ và để ly gián Ngụy và Thục nên đem đầu ông đến nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râu tóc dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu và không lâu sau cũng chết". Câu chuyện này dựa trên một phần thực tế về cái chết của Lã Mông. Không lâu sau khi đánh chiếm được Kinh châu cho Tôn Quyền và giết Quan Vũ, Lã Mông trở về cũng ốm nặng, không ăn uống được gì và qua đời.[32]

Lúc Quan Vũ bị hành quyết không rõ bao nhiêu tuổi. Tam Quốc diễn nghĩa ghi ông thọ 58 tuổi, tức là sinh năm khoảng 162, nhưng các nhà sử học không xác nhận thông tin này là chính xác.[33] Sau này, Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã mang quân đi đánh Tôn Quyền (năm 221), kết quả bị thua tan nát.



Quan Vũ có hai con trai: Quan Bình và Quan Hưng. Quan Bình theo ông đi chiến trận, bị Đông Ngô bắt giết cùng ông năm 219.[34]

Quan Hưng lớn lên ở Ích Châu, được Gia Cát Lượng yêu mến, cất nhắc làm Thị trungTrung giám quân. Quan Hưng qua đời sớm.[35] Quan Vũ còn một người con gái, Tôn Quyền từng định hỏi cho con trai mình để kết thông gia nhưng ông từ chối.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, Quan Vũ còn có người con trai thứ ba tên là Quan Sách (nhân vật hư cấu), từng tham gia Nam chinh chống Mạnh Hoạch cùng với Gia Cát Lượng.

Con trưởng Quan Hưng là Quan Thống làm tới chức Hổ bôn trung lang tướng, cũng mất sớm không có con trai. Người con thứ của Quan Hưng là Quan Di, sau khi Quan Thống mất được tập tước Hán Thọ đình hầu.

Khi Thục Hán diệt vong (264), con Bàng Đức là Bàng Hội theo Chung Hội tìm hết nhà họ Quan ở Thành Đô tàn sát để trả thù cho cha, dòng họ Quan Vũ bị diệt vong.[35]



Quan Vũ được đánh giá là người dũng cảm phi thường, đứng đầu toàn quân. Ông trọng điều nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tôi trung thành. Dù được Tào Tháo hậu đãi nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị; theo Lưu Bị nhiều năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ông vẫn một lòng không thay đổi. Ông cùng với Triệu Vân, Trương Phi là nhưng vị tướng theo sớm Lưu Bị nhất và trung thành nhất với Lưu Bị

Các nhà sử học nhất trí đánh giá Quan Vũ là người vũ dũng nhưng kiêu ngạo, không chịu ở dưới người khác.[36] Năm 214, nghe tin Mã Siêu đến hàng Lưu Bị ở Tây Xuyên, Quan Vũ đang ở Kinh châu bèn viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi:


Nhân phẩm, tài năng của Mã Siêu có thể so sánh với ai?

Gia Cát Lượng phải lựa lời viết thư lấy lòng Quan Vũ:


Mã Siêu chỉ có thể sánh ngang với Trương Phi, không thể siêu phàm tuyệt luân như ngài!

Ông đọc thư rất đắc ý và mang thư khoe với nhiều người.[36]

Năm 219, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương, phong ông làm Tiền tướng quân và lão tướng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân.[37] Quan Vũ thấy mình ở ngang hàng với Hoàng Trung, không bằng lòng, không chịu nhận ấn tín. Phí Vĩ phải lựa lời khuyên ông nên vì nghiệp lớn của Lưu Bị, ông mới tỉnh ngộ và thụ phong.

Khi trấn giữ Kinh châu, Quan Vũ đã không giữ nổi đất và để mất 3 quận. Tôn Quyền trên danh nghĩa "nhận" 3 quận do Quan Vũ bàn giao nhưng trên thực tế đã chiếm được trong tay; họ Tôn lại thực sự trao cho ông 2 quận đang nắm giữ. Việc trở mặt khinh mạn Tôn Quyền của Quan Vũ là một sai lầm. Sau này Tôn Quyền giết ông, các sử gia đánh giá rằng: Lưu Bị và Quan Vũ có nhiều điều không phải với Tôn Quyền, nhưng việc Tôn Quyền ngầm đầu hàng Tào Tháo từng là kẻ thù chung để đánh lén sau lưng Quan Vũ cũng là quá đáng.[32]

Trần Thọ, tác giả sách Tam Quốc chí có đánh giá về ông cũng được đời sau ghi nhận là công bằng:


Quan Vũ… sức địch vạn người, hổ thần một thời. Vũ báo ơn Tào công… có phong độ quốc sĩ. Nhưng Vũ cương và tự phụ,… lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy.[38]

Tam Quốc diễn nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]


Đào viên Tam kết nghĩa đồ (桃園三結義圖) - Nhật Bản.

La Quán Trung lấy nhà Hán làm chính thống và ủng hộ Lưu Bị, do đó Quan Vũ - người trợ giúp đắc lực của Lưu Bị - được mô tả là nhân vật chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng. Tác giả đã thêu dệt ra rất nhiều chiến công cho nhân vật Quan Vũ, còn những thất bại được ghi trong sử sách thì lượt bỏ.

Tình huynh đệ giữa ông với Lưu Bị và Trương Phi được La Quán Trung ca ngợi. Xuyên suốt trong Tam quốc, cụm từ "kết nghĩa vườn đào" là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn, hoạn nạn mà mờ phai. Ngoài ra ông còn là một người trọng tình nghĩa, trong trận Trường Bản có nhiều người nói Triệu Vân bỏ sang hàng Tào nhưng ông một mực không tin - Thực ra là Triệu Vân phải phá vòng vây cứu ấu chúa. Ông còn sử dụng lòng nhân từ của mình để thu phục Hoàng Trung, một lão tướng sức địch muôn người.

Vân Trường không tuân theo sách lược của Khổng Minh là "Bắc cự Tào Tháo, Ðông hòa Tôn Quyền". Tuy Vân Trường nói: "Tôi xin ghi tạc lời Quân sư chỉ bảo", nhưng ông không thực hiện sách lược đó.

Sau đó, Tôn Quyền khiến Gia Cát Cẩn đến Kinh Châu, nói với Vân Trường: "Tôi đến có ý kết giao hai nhà. Chúa tôi có con trai thông minh, nghe ngài có con gái tuyệt sắc, nên muốn cầu thân. Nếu ưng thuận, chúng ta sẽ hiệp nhau đánh Tào."

Nhưng Vân Trường nổi giận nói: "Con gái ta ví như loài hổ, há lại gả cho loài khuyển?"

Có lẽ đó là bước ngoặt dẫn đến cái chết của Vân Trường do Đông Ngô gây ra.


Chiến tích[sửa | sửa mã nguồn]


Những nhà nghiên cứu Tam Quốc diễn nghĩa đã tổng kết: trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, Quan Công lập nhiều công trận, trước sau chém được 17 viên tướng ngoài mặt trận. Tuy nhiên, theo chính sử thì trừ việc chém Nhan Lương ra, những chiến tích còn lại là hư cấu:


  1. Chém Trình Viễn Chí - tướng khởi nghĩa Khăn Vàng (nhân vật hư cấu)

  2. Chém Hoa Hùng, tướng của Đổng Trác (trong sử ghi bị Tôn Kiên bắt giết)

  3. Chém Quản Hợi, dư đảng Khăn Vàng (nhân vật hư cấu)

  4. Chém Tuân Chính, tướng của Viên Thuật ở Vu Thai (nhân vật hư cấu)

  5. Chém Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ châu (Xa Trụ là quan văn, bị giết khi Lưu Bị chiếm Từ Châu)

  6. Chém Nhan Lương, tướng của Viên Thiệu ở Bạch Mã

  7. Chém Văn Xú, tướng của Viên Thiệu ở Diên Tân (trong sử ghi bị quân Tào giết)

  8. Chém Khổng Tú ở ải Đông Lĩnh (nhân vật hư cấu)

  9. Chém Mạnh Thản ở Lạc Dương (nhân vật hư cấu)

  10. Chém Hàn Phúc ở Lạc Dương (nhân vật hư cấu)

  11. Chém Biện Hỉ ở Nghi Thủy (nhân vật hư cấu)

  12. Chém Vương Thực ở Vinh Dương (nhân vật hư cấu)

  13. Chém Tần Kỳ ở Hoạt châu (nhân vật hư cấu)

  14. Chém Sái Dương ở Cổ Thành (Tướng của Tào Tháo, tử trận khi đi đánh Lưu Bị ở Nhữ Nam)

  15. Chém Hạ Hầu Tồn ở Tương Dương (nhân vật hư cấu)

  16. Chém Dương Linh - tướng của Hàn Huyền ở Trường Sa (nhân vật hư cấu, trận chiến Trường Sa cũng không có thật vì Hàn Huyền đầu hàng Lưu Bị ngay lập tức)

Ngoài ra, ông còn ra lệnh hành quyết Bàng Đức sau khi viên tướng này bị bắt sống ở Khoái Khẩu.

Những người trợ thủ đắc lực nhất cho ông ngoài mặt trận trong nhiều năm là con nuôi Quan Bình (thật ra là con ruột) và Chu Thương (nhân vật hư cấu).


Những điển tích từ tiểu thuyết[sửa | sửa mã nguồn]


Tranh vẽ Quan Vũ vừa được chữa vết thương ở tay, vừa chơi cờ vây.

  • Đuốc sáng thâu đêm (Minh chúc đạt đán): Kể về sự việc khi Quan Vũ đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo cố ý sắp đặt cho Quan Vũ và 2 bà vợ Lưu Bị ở cùng một phòng để ông mắc lỗi đạo với Lưu Bị và không trở về với họ Lưu được nữa. Nhưng khi Cam phu nhân và My phu nhân đi ngủ, Quan Vũ đứng cầm đuốc bên ngoài canh gác suốt đêm cho tới sáng. Tào Tháo nghe vậy rất khâm phục ông.

  • Một đao đến hội (Đơn đao phó hội): Tôn Quyền muốn lấy lại Kinh châu, Lỗ Túc bày mưu dụ Quan Vũ đến hội ở Lục Khẩu và cho phục binh, nếu ông không đồng ý trả Kinh châu thì sẽ giết chết. Nhưng vì Quan Vũ quá uy dũng, vừa thủ thanh long đao trong tay, vừa nắm lấy Lỗ Túc khiến quân Ngô không thể động thủ. Quan Vũ trở về an toàn.

  • Cạo xương trị thương: Quan Vũ đánh Phàn Thành, bị trúng tên độc của Tào Nhân. Thuốc độc ngấm vào tận xương nguy hiểm tính mạng. Danh y Hoa Đà đến chữa, đề nghị gây mê ông để khỏi nhìn cảnh Hoa Đà khoét thịt cạo độc trong xương. Nhưng Quan Vũ không đồng ý, vẫn thản nhiên ngồi đánh cờ với Mã Lương trong lúc Hoa Đà chữa tay. Chính Hoa Đà phải khâm phục dũng khí của ông.

Vũ khí và ngựa chiến[sửa | sửa mã nguồn]


Nhiều năm chinh chiến và lập công trận, Quan Vũ gắn bó với vũ khí là thanh long đao và ngựa chiến là ngựa xích thố.

Thanh long đao gọi là Thanh long yển nguyệt (yển nguyệt là trăng lưỡi liềm) do ông đặt rèn khi chuẩn bị đánh quân Khăn Vàng từ hồi một trong tiểu thuyết. Thanh long đao thật ra là hư cấu, loại vũ khí này mãi đến thời Đường, Tống mới bắt đầu xuất hiện. Sử không ghi Vũ dùng loại vũ khí gì.

Con ngựa chiến Xích thố nổi tiếng của ông vốn là ngựa của Đổng Trác. Trác mang tặng Lã Bố để mua chuộc Bố phản Đinh Nguyên về theo mình. Lã Bố bị giết, ngựa về chuồng của Tào Tháo. Tào Tháo muốn lấy lòng ông bèn tặng ngựa xích thố cho ông. Ngựa quý một ngày có thể đi ngàn dặm, sau này theo Quan Vũ qua 5 ải chém 6 tướng và lập nhiều chiến tích khác. (Ngựa xích thố của Lã Bố là có thật, nhưng việc Vũ cưỡi nó là hoàn toàn hư cấu).


Hiển thánh[sửa | sửa mã nguồn]


Đề cao uy linh dũng khí của ông, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiển linh sau khi chết: vật chết Lã Mông trong dinh Tôn Quyền; thủ cấp nổi giận khiến Tào Tháo bệnh nặng qua đời; giúp con là Quan Hưng giết được Phan Chương để trả thù trận Mạch Thành.

Ngoài ra, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiện lên đòi trả mạng chết oan khi gặp lại sư Phổ Tĩnh là người đồng hương. Sư Phổ Tĩnh lựa lời khuyên giải, ông mới ra đi.


Trọng Tương vấn Hán[sửa | sửa mã nguồn]


Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.

Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Tây Sở bá vương Hạng Vũ đầu thai làm Quan Vũ; Hạng Bá và Ung Sĩ từng phản Hạng Vũ phải đầu thai làm Văn Sú và Nhan Lương để Quan Vũ sát hại trong trận Bạch Mã - Diên Tân; các viên tướng tranh giành xé xác Hạng Vũ để lĩnh tước hầu của Lưu Bang đầu thai làm các tướng giữ cửa 5 ải và bị Quan Vũ giết chết trên đường tìm Lưu Bị.


Thủy Hử[sửa | sửa mã nguồn]


Thủy hử là tác phẩm văn học của Thi Nại Am, kể chuyện 108 anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa "Thay Trời Hành Đạo". Trong 108 anh hùng Lương Sơn, có 2 nhân vật được xây dựng trên hình mẫu của Quan Vũ:


  1. Đại Đao Quan Thắng là hậu duệ của Quan Vũ, dung mạo y như ông tổ, sức địch muôn người, râu dài 3 chòm (Quan Vũ râu dài 5 chòm), sử dụng binh khí Thanh Long Đao Yển Nguyệt, cưỡi ngựa Xích Thố. Quan Thắng cũng đứng đầu Ngũ Hổ tướng Lương Sơn Bạc giống như Quan Vũ đứng đầu Ngũ Hổ tướng Thục Hán.

  2. Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng là đô đầu ở huyện Vận Thành, có dung mạo rất giống Quan Vũ, đặc biệt là bộ râu dài và đẹp nên có biệt hiệu là Mỹ Nhiêm Công.

Hình ảnh Quan Vũ được chuyển thể lên màn ảnh thông qua các bộ phim truyền hình và điện ảnh, tính đến nay hình ảnh Quan Vũ đã được tái hiện qua nhiều diễn viên khác nhau ở các bộ phim khác nhau:



Tại Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]


Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]


Quan Vũ được thờ phụng ở nhiều nơi, tôn lên nhiều danh hiệu cao quý. Ông là nhân vật được phong tặng nhiều danh hiệu nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Khi còn sống, lúc phục vụ Tào Tháo ông được Hán Hiến Đế phong "Hán Thọ Đình Hầu (漢壽亭侯)" năm 189. Mặc dù là người anh em kết nghĩa với Lưu Bị, song ông không được phong tước trong thời gian Lưu Bị trị vì nhà Thục Hán.

38 năm sau khi ông mất, Thục Hán Hậu Chủ Lưu Thiện truy tặng ông tước "Tráng Mậu hầu (壯繆侯) năm 258, "Nghĩa Dũng Tráng Mậu Hầu (義勇壯繆侯) năm 263.

Thời nhà Tống, Tống Huy Tông phong ông là"Trung Huệ Công (忠惠公)" năm 1102; "Sùng Ninh Chí Đạo Chân Quân (崇寧至道真君)" năm 1104, "Vũ An Vương (武安王) năm 1107,"Chiêu Liệt Vũ An Vương (昭烈武安王)" năm 1107,"Nghĩa Dũng Vũ An Vương (義勇武安王)" năm 1123,; Tống Cao Tông phong ông làm "Tráng Mậu Nghĩa Dũng Vũ An vương (壯繆義勇武安王)" năm 1128;Tống Hiếu Tông phong ông làm "Tráng Mậu Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương (壯繆義勇武安英濟王)" năm 1187.Đến thời nhà Nguyên, Nguyên Văn Tông phong ông làm "Hiển Linh Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王)" năm 1328; " Tề Thiên Hộ Quốc Đại tướng Quân, Kiểm Giáo Thượng Thư, Thủ Quản Hoài Nam Tiết Độ Sứ, Kiêm Sơn Đông, Hà Bắc Tứ Môn Quan Chiêu Thảo Sứ,Kiêm Đê Điều Chư Cung Thần, Vô Phân Đại Xứ Kiểm Hiệu Quan, Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Chính Sự, Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, Giá Tiền Đô Thống Quân, Vô Nịnh Hầu, Tráng Mục Nghĩa Dũng Vũ An Anh Tế Vương, Hộ Quốc Sùng Ninh Chân Quân (齊天護國大將軍、檢校尚書、守管淮南節度使,兼山東、河北四門關招討使,兼提調諸宮神、無分地處檢校官、中書門下平章政事、開府儀同三司、駕前都統軍、無佞侯、壯穆義勇武安英濟王、護國崇寧真君)" năm 1331. Đến thời nhà Minh, Minh Thần Tông tôn ông làm " Hiệp Thiên Hộ Quốc Trung Nghĩa Đại Đế (協天護國忠義大帝) năm 1578, rồi tôn thành"Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Chấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎮天尊關聖帝君)" năm 1613; Minh Tư Tông tôn ông làm "Chân Nguyên Hiển Ứng Chiêu Minh Dực Hán Thiên Tôn(真元顯應昭明翼漢天尊)" năm 1630; vua nhà Minh coi ông là vị thần hộ quốc[39]

Đời Nhà Thanh, vua Thuận Trị tôn ông là "Trung Nghĩa Thần Vũ Quan Thánh Đại Đế (忠義神武關聖大帝)" năm 1652; vua Ung Chính truy phong cho ông cố ông làm "Quang Chiêu Công (光昭公), ông nội ông làm "Dụ Xương Công(裕昌公)", cha ông làm "Thành Trung Công(成忠公)" năm 1725 và lệnh cho toàn quốc lập Võ miếu thờ ông, sử dụng lễ nghi dành cho Khổng Tử để cúng tế ông, bắt đầu cho sự thờ cúng quốc gia với Quan Công. Vua Càn Long tôn ông làm "Sơn Tây Quan Phu Tử(山西關夫子)" năm 1736, trở thành nhân vật thứ hai trong lịch sử Trung Quốc nhận danh hiệu Phu Tử, chính thức đặt ông ngang hàng Khổng Tử; đến năm 1767, lại ban ông thêm hai chữ "Linh Hựu (靈佑)". Vua Gia Khánh ban ông hai chữ "Nhân Dũng(仁勇)" năm 1813; vua Đạo Quang tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇威顯關聖大帝)" năm 1828; vua Hàm Phong tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Quan Thánh Đại Đế(忠義神武靈佑仁勇威顯護國保民精誠綏靖關聖大帝) và ông cố, ông nội, cha ông được phong làm vương. Năm 1879, vua Quang Tự tôn ông làm "Trung Nghĩa Thần Vũ Linh Hựu Nhân Dũng Uy Hiển Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Thánh Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế(忠義神武靈佑仁勇威顯護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝)"; danh hiệu 26 chữ này là danh hiệu duy nhất dài nhất của ông, dài hơn thụy hiệu các vị Hoàng Đế [40], chứng tỏ sự tôn thờ to lớn dành cho ông.


Tôn thờ[sửa | sửa mã nguồn]


Tào Tháo được xem là người đầu tiên dựng am thờ Quan Vũ, ngay tại quận Tiêu nước Bái quê mình - am Linh Thố.[41]

Sau đó nhiều nơi ở Trung Quốc đã lập đền thờ Quan Vũ. Do ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng ông càng trở nên thần thánh trong sự ngưỡng mộ của nhân dân. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi tại Võ miếu. Tại huyện Thái Hưng tỉnh Giang Tô, ông được thờ cùng Nhạc Phi và Văn Thiên Tường.[42]

Việc thờ Quan Vũ có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Ông được nhân dân thờ như Thần độ mạng; giới thương nhân coi ông như thần tài; giới nho sĩ coi ông như thần văn học (tượng Quan Vũ trên 1 tay có cầm Kinh Xuân Thu); giới quân sự coi ông như vị thần bảo vệ bản mệnh. Người ta giải thích rằng sở dĩ ông có cả ảnh hưởng tới giới thương nhân vì hồi còn hàn vi ông từng làm nghề bán đậu phụ. Các đao phủ thường giấu đao trong đền thờ ông vì họ cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở oan hồn về báo oán.[43]


Tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]



Việc thờ Quan Vũ ở Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, từ Bắc đến Nam. Người Việt Nam thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật. Người Việt gọi là Hán Thọ Đình Hầu (漢壽亭侯), hay phổ biến là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Trong dân gian tôn là thần Trung Nghĩa. Bàn thờ thường đặt trong điện Quan Đế.

Một số nơi thờ Quan Thánh ở Việt Nam:[44]


  • Đền Hội Mỹ số 9 phố Bùi Thị Xuân, phường Bùi Thị Xuân, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội

  • Đền Hồng Sơn, Tp Vinh tỉnh Nghệ An. Còn gọi là Đền Nhà Ông

  • Chùa ông,Tp Nha trang, đường 23-10

  • Đền Ngọc Sơn hồ Hoàn Kiếm trước đây từng là nơi thờ Quan Thánh.

  • Đền Quan Công ở bến Tây Luông, cách cổng thành Thăng Long 2 dặm.

  • Miếu Quan Đế do Bỉnh Trung Công thời Hậu Lê xây dựng ở phường Hà Khẩu, nay là phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội.

  • Miếu Quan Thánh ở xã Năng Tịnh, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.

  • Đền Quan Đế ở xã đông lĩnh, huyện đông Sơn, Thanh Hóa.

  • Đền Quan Thánh ở phố Bắc Hà, huyện Kim Động, Hưng Yên

  • Miếu Quan Công do người Hoa xây dựng ở huyện Phong Thổ, Lai Châu.

  • Miếu Quan Đế ở xã Nước Hai, huyện Hòa An, Cao Bằng.

  • Đền Quan Công tại cạnh chùa Thiên Mụ ở Huế.

  • Chùa Quốc Ân tại Cố đô Huế

  • Đền Quan Công ở Hội An, Quảng Nam.

  • Quan Thánh tự ở Thu Xà, Nghĩa Hòa, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi

  • Quảng Đông tỉnh hội quán ở Long Xuyên, An Giang

  • Miếu Quan Đế (Chùa Ông) của người Hoa, Phan Thiết, Bình Thuận.

  • Thất phủ cổ miếu ở Biên Hòa, Đồng Nai

  • Đền Quan Công tại huyện Tuy Phong, Bình Thuận

  • Chùa Quan Đế ở Bình Tây, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Đền thờ Quan Thánh tại Thành phố Vũng Tàu.

  • Đền Võ Miếu tại phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh

  • Chùa Quan Đế của người Hoa tại Mỹ Tho, Tiền Giang

  • Thất Phủ Miếu (Chùa Ông) của người Hoa tại phường 5, thành phố Vĩnh Long, Vĩnh Long.

  • Chùa Ông Bổn tại thị trấn Cầu Kè, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

  • Chùa Ông của người Hoa tại đường Điện Biên Phủ, phường 3, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xây dựng

Những người theo đạo Hòa Hảo làm lễ Quan Thánh vào ngày 24 tháng 6 âm lịch[45]


Tranh và tượng[sửa | sửa mã nguồn]



Quan Vũ được dân gian tạc tượng và vẽ tranh rất nhiều, theo mô phỏng sự mô tả của Kinh Minh thánh: mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt.[46]

Thông dụng hơn cả trong tranh, tượng dân gian là hai kiểu: tượng ba ôngtượng năm ông.

Tượng ba ông gồm có Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng, tay vuốt râu, tay kia cầm Kinh Xuân Thu; sau lưng hai bên có Quan Bình đứng bên trái giữ ấn, Châu Thương đứng bên phải giữ thanh long đao.

Tượng năm ông tương tự như tượng ba ông, nhưng có vẽ thêm Trương Tiên cầm cung và Vương Thiên Quân cầm giản đứng hầu.[47]


Câu đối[sửa | sửa mã nguồn]


Tại những thờ Quan Vũ có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là:[48]


Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ Xích thố truy phong, trì khu thời, vô vong Xích đế

Thanh đăng quang thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý thanh thiên

Dịch nghĩa:


Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ.[49]

Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanh
Sinh Bồ châu, sự Dự châu, chiến Kinh châu, thủ Từ châu, vạn cổ thần châu hữu nhất

Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, cầm Bàng Đức, phóng Mạnh Đức, thiên thu chánh đức vô song

Dịch nghĩa:


Sinh ở Bồ châu, làm việc tại Dự châu (cùng Lưu Bị), chiến Kinh châu, thủ Từ châu, trước giờ chỉ có duy nhất ở Thần châu,[50]

Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt giữ Bàng Đức, tha Mạnh Đức,[51] ngàn thu đức lớn không ai sánh bằng


  • Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng

  • Lê Đông Phương, Vương Tử Kim (2007), Kể chuyện Tần Hán, Nhà xuất bản Đà Nẵng

  • Nguyễn Tử Quang (1989), Tam Quốc bình giảng, Nhà xuất bản tổng hợp An Giang

  • Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006), Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1, Nhà xuất bản Lao động

  • Lê Anh Dũng (1995), Quan Thánh xưa và nay, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin


  1. ^ Theo Tam quốc diễn nghĩa thì năm sinh của ông là 162 nhưng không được các tài liệu chính thống xác nhận. Ông mất tháng 12 năm Kiến An thứ 24 tức khoảng 23/1/220 đến 21/2/220

  2. ^ Thục thư (Quan Vũ truyện) chỉ viết "Tiên chủ (Lưu Bị) cùng hai người (Quan, Trương) ngủ cùng giường, tình thân như huynh đệ", không có ghi chép gì về việc "kết nghĩa anh em". Danh hiệu "Ngũ Hổ Tướng" cũng không có trong sử sách, ngoài việc Trần Thọ trong Tam Quốc Chí đã xếp 5 người vào chung trong quyển 6 của Thục Thư là "Quan Trương Mã Hoàng Triệu truyện".

  3. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 15-16

  4. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 13

  5. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 22

  6. ^ Tam quốc chí - Thục thư 6 - Quan Vũ truyện, Ngụy thư 3 – Hán Hiến đế truyện (ghi chép về Tần Lãng).

  7. ^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 377

  8. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 603

  9. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 122

  10. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 108

  11. ^ Tam quốc chí - Ngụy thư - nhị Lý Tang Văn Lã Hứa Điển nhị Bàng Diêm truyện, Lý Thông truyện.

  12. ^ Tam quốc chí - Ngụy thư - Trương Nhạc Vu Trương Từ truyện, Nhạc Tiến truyện.

  13. ^ Tam quốc chí - Ngụy thư - nhị Lý Tang Văn Lã Hứa Điển nhị Bàng Diêm truyện, Văn Sính truyện.

  14. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 604

  15. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 228

  16. ^ Lưu Bị lấy Tôn Thượng Hương – em gái Tôn Quyền

  17. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 233-234

  18. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 234-235. Nửa Nam quận kia vẫn của Tào Tháo

  19. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 276

  20. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 608

  21. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 276-277

  22. ^ Thục ký viết: con Bàng Đức là Hội theo Chung - Đặng phạt Thục. Thục bị diệt, đã cho giết sạch gia tộc Quan Vũ.

  23. ^ Phần Kinh châu của họ Tào như trên đã nêu, thực tế chỉ có Nam Dương và nửa Nam quận

  24. ^ Nay là huyện Hiệp, Hà Nam, Trung Quốc

  25. ^ a ă Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 279

  26. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 610

  27. ^ Phía đông nam đường từ Hồ Bắc tới Đương Dương

  28. ^ Phía tây bắc Tương Dương

  29. ^ Thục thư - Quan Vũ truyện viết: Quyền sai tướng đón đường đánh lén Vũ, chém chết Vũ cùng con của Vũ là Bình ở Lâm Thư.

  30. ^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 281

  31. ^ Nguyễn Tử Quang, sách đã dẫn, tr 223

  32. ^ a ă Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 280

  33. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 599

  34. ^ Tam quốc chí, Thục thư 6 - Quan Vũ truyện

  35. ^ a ă Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 394

  36. ^ a ă Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 612

  37. ^ Hai chức vụ cao nhất trong quân đội

  38. ^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 614

  39. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 62-64

  40. ^ Thời Trung Quốc xưa, tên thụy của một người càng dài càng chứng tỏ địa vị cùng sự tôn kính đối với người đó; thụy hiệu của một vị Hoàng Đế Trung Quốc tối đa chỉ có 25 chữ

  41. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 75

  42. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 81, 84

  43. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 85, 87

  44. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 114-116

  45. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 124

  46. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 92

  47. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 95

  48. ^ Lê Anh Dũng, sách đã dẫn, tr 99, 103

  49. ^ Chỉ nhà Hán, vì nhà Hán ứng với vận Hoả

  50. ^ Thần châu tức là Trung Quốc

  51. ^ Huyền Đức là tên tự của Lưu Bị; Dực Đức là tên tự của Trương Phi, Mạnh Đức là tên tự của Tào Tháo



No comments:

Post a Comment